Lịch sử Từ_(nước)

Thời vua Vũ nhà Hạ, do Bá Ích có công phụ tá Vũ trị thủy, nên con trai Nhược Mộc thụ phong đất "Từ" (nay là khu vực Đàm Thành, Sơn Đông), hình thành nước Từ. Dưới ba triều đại là Hạ, Thương, Tây Chu, nước Từ luôn là một nước chư hầu lớn mạnh.

Từ thời Chu Công Đán đến thời Chu Thành Vương, Chu Khang Vương, chiến tranh giữa Tây Chu và Từ diễn ra hết sức thường xuyên. Nước Từ từng tham gia vào cuộc phản loạn chống lại triều đình Chu do các tàn dư quý tộc triều Thương đứng đầu là Vũ Canh tiến hành, và chống lại chiến dịch đông chinh của Chu Công Đán. Từ Câu Vương từng khởi binh trực tiếp tiến đánh triều Chu, tiến đánh thẳng vào vùng ven bờ Hoàng Hà, người nước Từ tự hào rằng "tiên quân Câu Vương tây thảo vu Hà".

Thời Chu Mục Vương, nhà Chu từng phái binh thảo phạt nước Từ, mục đích là để buộc nước này phải thần phục, song không thành công. Đó là thời Từ Yển Vương cai trị, có 32 nước triều cống nước Từ (Hàn Phi Tử cho rằng có 36 nước). Vài năm sau, Từ Yển Vương mang quân tiến đánh nhà Chu, tuy nhiên nhà Chu, dưới sự hỗ trợ của nước Sở, đã tiêu diệt quân Từ và tổ chức phản công, đánh lấy nước Từ. Sau khi bị triều Chu đánh bại, Từ Yển Vương đi ẩn cư ở vùng rừng núi Bành Thành[1]. Sau đó, Chu Mục Vương phong cho con cháu của Yển Vương làm Từ tử, kế tục thống trị nước Từ. Kể từ đó đến lúc diệt vong, nước Từ trở thành phụ dung của nước Sở, góp sức cho Sở thôn tính các tiểu quốc từng triều cống Từ.

Con của Chu Công Đán là Bá Cầm được phong làm quân chủ nước Lỗ, giữa nước Lỗ và nước Từ thường xuyên phát sinh cọ xát.[2]

Năm 512 TCN, tức năm thứ ba đời Ngô vương Hạp Lư, nước Ngô phái sứ thần đến ra lệnh cho nước Từ và nước Chung Ngô (钟吾) phải giao công tử Yểm Dư và Chúc Dung. Hai nước ỷ vào việc có nước Sở lớn mạnh chống lưng nên từ chối làm theo, bí mật phóng thích hai công tử để họ quay về Sở. Ngô vương vì thế đã có cớ để xuất binh, mùa đông năm 512, Ngô vương phái Tôn Vũ, Ngũ Tử Tư thảo phạt nước Từ và nước Chung Ngô.

Quân Từ sụp đổ ngay trong trận đầu tiên, kết quả là bị nước Ngô tiêu diệt. Sau khi nước Từ diệt vong, quốc nhân lấy quốc danh làm họ. Tĩnh An được xem là gia viên cuối cùng của nước Từ.[3]